cây cỏ lông ngỗng
Câu 1: Mục đích của việc vun xới là:A. Diệt cỏ dại.B. Diệt sâu, bệnh hại.C. Làm đất tơi xốp.D. Tăng bốc hơi nước.Câu 2:
Một loại quả mọng thú vị, nho bắc miền Bắc, quả ngỗng chứa khá nhiều vitamin và khoáng chất, bao gồm kali và vitamin C. Do đó, chúng ta sẽ thu hoạch ngỗng cho mùa đông. Để mứt dâu hoặc compote không chỉ ngon mà còn đẹp, quả mọng phải được loại bỏ khỏi cuống và
Lá cỏ lông heo hình kim nhỏ nên tạo thảm mịn màu xanh đẹp. Cỏ lông heo là một loại cỏ có kết cấu rất tốt, màu xanh lá cây tối màu. Cỏ lông heo có thân nhỏ và ngắn, bò sát mặt đất. Cỏ lông heo có phiến lá cứng và ngắn dài 5 cm, lá hình kim.
1. Bệnh tụ huyết trùng – Nguyên nhân: Bệnh tụ huyết trùng còn gọi là hoại huyết ngỗng, ngỗng rất mẫn cảm với bệnh này.Ở những ngỗng khỏe mạnh vẫn có mầm bệnh (vi khuẩn Pasteurella) nhưng chỉ có ngỗng thường xuyên không được ăn đủ vitamin, protit, chất khoáng, hoặc gặp môi trường sống không thuận
Cây Hoa Cảnh ILG là trang web được lập nên bởi sự chung tay của cộng đồng những nhà vườn trên cả nước. ILG (viết tắt của I LOVE GARDENING – Tôi yêu làm vườn) thể hiện niềm đam mê chung của những nhà vườn nhiều năm trong ngành, những người yêu cây cảnh, những doanh nghiệp trẻ trong và ngoài nước, cùng sát
Whatsapp Dating Group In South Africa. Nếu bạn đã xác định được những ngọn cỏ bị cắt xén với nhiều lưỡi giống như ngón tay trong bãi cỏ của bạn, bạn sẽ cần điều tra làm thế nào để tiêu diệt ngỗng. Nhà máy có thể được thiết lập ngay cả trong đất cứng, nén và rất đàn hồi. Phiến lá dày rất khó cắt bằng máy cắt và thậm chí sau khi tỉa sát, cỏ sẽ trông rách rưới và không được chăm sóc nếu có lông ngỗng. Cây rõ ràng nhất là vào mùa hè ấm áp, nhưng có thể tồn tại vào mùa đông ở vùng ôn đới. Các lưỡi dày, thô ráp tỏa ra từ một khu vực trung tâm trong các mũi nhọn từ 2 đến 13. Mỗi lưỡi dao phẳng với răng cưa nhẹ ở các cạnh. Màu xanh ngọc lục bảo với các lưỡi cũ hơn mang một màu trắng trên các cạnh bị hư hỏng. Kiểm soát ngỗng trong bãi cỏ Kiểm soát ngỗng là điều cần thiết cho một bãi cỏ hấp dẫn. Cây khó khăn đòi hỏi sự cảnh giác để giữ cho đầu hạt giống hình thành. Giữ lưỡi cắt của máy cắt của bạn thật sắc nét để chúng có thể loại bỏ các hoa hồng ngoại trước khi chúng gieo hạt. Nước ngập và văn hóa cực đoan có thể thúc đẩy sự phát triển của cỏ dại. Những bãi cỏ loang lổ và những khu vực có lưu lượng chân lớn sẽ có số lượng ngỗng cao nhất. Việc kiểm soát ngỗng trong bãi cỏ phụ thuộc vào việc bảo trì đúng cách trước và trước khi xuất hiện hoặc sau khi xuất hiện hóa chất để bùng phát. Một cách đơn giản để giúp ngăn chặn cỏ dại là sục khí. Sục khí làm tăng độ xốp của mặt đất và ngăn cản sự hình thành của ngỗng. Kiểm soát cỏ dại Có một số loại thuốc diệt cỏ xuất hiện trước để kiểm soát cỏ ngỗng. Chúng hoặc được sử dụng đơn lẻ hoặc với các hóa chất khác. Công thức chính xác sẽ phụ thuộc vào loại sod trong bãi cỏ của bạn. Thuốc diệt cỏ sau khi xuất hiện rất hữu ích như các ứng dụng tại chỗ và có thể được sử dụng nhiều lần trong mùa để kiểm soát cỏ dại trước khi chúng gieo hạt. Hãy chắc chắn tham khảo nhãn của sản phẩm bạn chọn để kiểm soát cỏ dại. Làm thế nào để giết ngỗng Thực hiện theo tất cả các biện pháp phòng ngừa được khuyến nghị trên sản phẩm bạn sử dụng để kiểm soát cỏ dại. Hầu hết các loại thuốc diệt cỏ cần được áp dụng khi có thời gian khô để ngăn sản phẩm rửa sạch khỏi lưỡi cỏ. Nếu bạn đang sử dụng một ứng dụng phun để kiểm soát cỏ ngỗng trong các bãi cỏ, hãy áp dụng nó vào một ngày không có gió để tránh trôi dạt có thể giết chết các cây không phải mục tiêu. Thuốc diệt cỏ trước khi xuất hiện hoạt động tốt nhất nếu được áp dụng vào cuối mùa đông đến đầu mùa xuân khi nhiệt độ đất đạt 60 độ F 15 C. trong 24 ngày liên tiếp. Ghi chú Kiểm soát hóa học chỉ nên được sử dụng như là phương sách cuối cùng, vì các phương pháp hữu cơ thân thiện với môi trường hơn.
I. NUÔI NGỖNG CHĂN THẢ ĐỒNG. 1. Nuôi ngỗng sinh sản. – Ngỗng sinh sản có thể chăn đàn từ 50 – 300 con. – Buổi sáng khi thả ngỗng ra khỏi chuồng nên lùa xuống ao sạch để chúng giao phối và tắm. Sau đó đưa ngỗng ra đồng chăn. Ngỗng thường nhớ đường đi về, chỉ cần tập vài lần là quen, chúng có thể đi ăn rất xa rồi tự tìm đường về chuồng được. Nhưng không nên cho ngỗng đi ăn quá xa sẽ bị mệt, nhất là vào mùa đẻ. – Ngỗng có thể chăn thả ở những cánh đồng đã gặt, bãi cỏ ven đê, bờ cỏ ven mương máng nhưng đó là những bãi chăn quanh năm của ngỗng. Ngỗng thích vặt cỏ non, cỏ già hay quá cao chúng chỉ ăn khi không còn cỏ khác. Có thể lùa ngỗng đi chăn theo các mương máng thường có nhiều cỏ non và hạt cỏ. – Ngỗng ít mò kiếm mồi như vịt nên ao hồ chỉ là nơi phối giống, bơi lội là chủ yếu. Người ta không thả ngỗng ra ven biển vì chúng không thích ăn những loại thức ăn mà vịt rất thích. – Ngỗng ở nước ta chịu khó kiếm ăn, nói chung trong toàn bộ thời gian chăn thả, chúng chỉ nghỉ lúc đã ăn no, khi trời quá nóng hoặc khi bị bùn bẩn phải xuống ao hồ tắm. Kỹ thuật chăn nuôi ngỗng Thời gian nuôi ngỗng bố mẹ được chia làm ba thời kỳ *Thời kỳ sinh sản – Ở thời kỳ này ngỗng co, ngỗng sư tử thường đẻ làm ba đợt, đợt đầu thường kéo dài hơn. Như vậy, không phải toàn bộ ngỗng cái đều cùng đẻ đồng loạt như nhau, mà có con đẻ trước có con đẻ sau. ngỗng rất nhớ ổ đẻ nên dù đang ăn ở đâu khi mót đẻ chúng cũng tự ý tách đàn đi về ổ đẻ của mình. Đang ở ngoài đồng, khi ngỗng cái bỏ về nhà, một ngỗng đực quen thuộc thường cũng theo về đứng gần ổ đẻ. Khi đẻ xong ngỗng tự đi ra đồng cùng kiếm ăn với đàn. Nhìn chung trứng ngỗng tỉ lệ có phôi không cao và nếu không có cách quản lý nuôi dưỡng thì có khi tỉ lệ phôi rất thấp. Muốn nâng cao tỉ lệ trứng ngỗng có phôi cần phải làm như sau – Cho ngỗng đực ăn thêm thức ăn bổ sung. Vào trước vụ để tách riêng ngỗng đực cho ăn thêm khoảng 15 ngày. Ngỗng đực được ăn tốt sẽ cho phẩm chất tinh dịch tốt. Thức ăn bổ sung là lúa ủ mầm mới nhú, cũng có thể cho ăn thêm thức ăn hỗn hợp bao gồm bột cá, cám trộn với rau xanh… – Khi thành lập đàn cần lưu ý đến tỉ lệ ngỗng ở các lứa tuổi khác nhau. Đàn ngỗng bố mẹ có thể sử dụng đến 5 năm, trong đàn nên có 10% ngỗng 1 năm tuổi, 20% 2 năm tuổi, 35% 3 năm tuổi, 25% 4 năm tuổi và 10% 5 năm tuổi. Thành lập đàn như vậy ngỗng đực có thể lựa chọn ngỗng cái phù hợp với nó và nâng cao tỉ lệ trứng có phôi. -Thường ngỗng hay giao phối vào buổi sáng sớm sau khi thả ra khỏi chuồng, vì vậy khi thả ngỗng cần lùa chúng xuống ao hồ nước sạch và sâu để chúng giao phối được thuận lợi – Buổi chiều lùa ngỗng về nếu thấy ngỗng còn đói thì nên cho ăn thêm thóc, bắp. Ngỗng đẻ được ăn no sẽ đẻ đều và có khả năng chịu đực tốt hơn. *Thời kỳ ấp trứng -Trước hết cần chuẩn bị tốt ổ đẻ cho ngỗng. Ổ đẻ có thể làm chung quanh tường trong chuồng, khoét nền chuồng thành hình lòng chảo có đường kính 40 cm, sâu 20 cm, lấy rơm vò mềm rồi lót lên ổ một lớp dầy 15cm, có thể đổ thêm trấu vào ổ. Giữa các ổ nên có vách ngăn để tránh tình trạng ngỗng tranh nhau ổ đẻ và đánh cắp trứng ấp của nhau. Khi ngỗng ấp cần san trứng trong mỗi ổ cho đều, không để con có nhiều trứng quá, con ít trứng quá. Ngỗng cái ham ấp, chỉ thỉnh thoảng chúng mới đi ra ngoài để phóng uế và ăn uống, vì thế nên để thức ăn và nước uống sẵn trong chuồng *Thời kỳ ngưng đẻ – Thời kỳ này kéo dài từ cuối tháng 4 đến tháng 8. Trong thời gian này không phải cho ngỗng ăn thêm gì, vì ngỗng không có thói quen chăm con, ngỗng con thường được nuôi riêng. Cũng vào thời gian này ngoài bãi chăn sẵn cỏ non và đặc biệt lại vào vụ gặt Đông – Xuân ngỗng được lùa ra đồng cho ăn lúa rụng. Nếu được chăn thả tốt, ngỗng bố mẹ được đủ thì chúng sẽ thay lông nhanh chóng, hồi phục được sức khỏe và tích lũy được các chất dinh dưỡng để phát triển trứng non và chuẩn bị cho vụ đẻ sau. – Nhìn chung ngỗng lớn có khả năng thích nghi với sự thay đổi thời tiết cao. Nhiệt độ thích hợp đối với ngỗng sinh sản thường là từ 14 – 150c. nếu trời mưa lạnh thì cần che chuồng cho ngỗng và tránh gió lùa. Về mùa hè ngỗng thường không chịu được nóng, vì thế chăn thả nên tìm nơi có bóng cây và có ao hồ nước sâu và mát để chúng bơi lội. 2. Nuôi ngỗng con gột ngỗng – Ngỗng con ở vào từ lứa tuổi sơ sinh đến 4 tháng tuổi khác với ngỗng bố mẹ, ngỗng con rất sợ lạnh vì khả năng điều tiết thân nhiệt kém. Ngỗng con được ăn no đủ sẽ lớn rất nhanh, thể trọng có thể gấp 15 – 20 lần lúc mới nở. Nuôi ngỗng con chăn thả hiện nay là một khâu khó khăn nhất, nhưng lại có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ kỹ thuật chăn nuôi ngỗng. – Trong nông dân ta có rất ít người có kinh nghiệm gột ngỗng con. Những người này thường ít phổ biến kinh nghiệm cho những người khác. Có thể đây là một trong những nguyên nhân chính khiến nghề nuôi ngỗng của ta qua bao thế kỷ vẫn chưa phát triển được. Thật ra việc gột ngỗng con không phải là một việc làm quá phức tạp. Những ngày đầu ngỗng con cần có nhiệt độ bên ngoài là 320c. có thể quây ngỗng con bằng mê bồ cao từ 0,5 – 0,8m. tùy theo số con mà quây mê bồ rộng hay hẹp nhưng không nên để thành đàn đông trên 200 con. Trong 3 ngày đầu chưa nên đưa ngỗng đi chăn vì lúc này chân nó còn yếu, đi chưa vững. Thời gian này không nên cho ngỗng ăn thức ăn đạm động vật để cho khối lòng đỏ còn lại trong bụng tiêu hết, nếu không nó sẽ biến thành một thứ tuyến làm ảnh hưởng đến sức lớn của ngỗng sau này. Thức ăn ngỗng thích nhất là rau xà lách. Nếu là xà lách thì thái nhỏ bằng sợi bún, trộn với ít cám hoặc cột thành bó cả cây treo lên vừa tầm để ngỗng tự vặt lấy. Nên để thức ăn thành nhiều chỗ để ngỗng đỡ tranh nhau ăn, nếu không có con ăn ít sau này đàn ngỗng lớn không đều. – Ngỗng con ăn rất khỏe và ăn luôn miệng. Buổi tối nên có đèn đủ sáng và đủ ấm thì ngỗng con có thể vẫn ăn uống. Sau 3 ngày tuổi phải tiếp tục cho ngỗng ăn vì chưa đưa chúng đi chăn thả được. Lúc này thức ăn phải có đủ thành phần và được gọi là thức ăn khởi điểm. Đây là một thứ thức ăn hỗn hợp gồm các thứ hạt nghiền gạo, bắp nghiền, đậu mảnh. Kích thước hạt thức ăn không được quá 4mm. Cho thêm khô dầu đậu tương, khô dầu đậu phộng và bột cá. Tỷ lệ các loại thức ăn trong khẩu phần % của ngỗng con trong 2 tuần lễ đầu có thể phối hợp như sau Hỗn hợp thức ăn hạt 70% Thức ăn đạm nguồn gốc động vật 5% Thức ăn đạm nguồn gốc thực vật 8% Cám 15% Các loại thức ăn bổ sung khác 2% – Đây là loại thức ăn dành cho ngỗng con của một số trại nuôi ngỗng tập trung với phương thức chăn nuôi thả là chủ yếu. Còn ở các trại giống nuôi ngỗng ngoại theo hình thức nuôi thâm canh trong đó chăn thả chỉ là phụ thì phải có thức ăn khác, đầy đủ thành phần hơn. – Có thể đánh giá kết quả chăn nuôi ngỗng bằng cách theo trọng lượng của ngỗng con ở các lứa tuổi khác nhau. Nói chung nếu sự tăng trọng đạt được như sau thì coi như ngỗng con đã phát triển bình thường đối với ngỗng cỏ1 ngày tuổi 110g,7 ngày tuổi 220g,14 ngày tuổi 400g, 21 ngày tuổi 570g, 28 ngày tuổi 820g – Thông thường muốn đạt được trọng lượng này thì trong chăn nuôi chăn thả phải cho ngỗng ăn khoảng 2,5 kg thức ăn tinh – Sau 5 ngày tuổi thì có thể đưa ngỗng đi chăn. Lúc này chân ngỗng vẫn còn yếu nếu bãi chăn thả khá xa thì phải chở chúng đi có thể gánh bằng xịa có nắp hở. Chú ý đừng có chở chật quá vì ngỗng con có thể đè lên nhau mà chết. Bãi chăn ngỗng con ở lứa tuổi này phải có nhiều cỏ non nhưng phải bằng phẳng và không quá rậm rạp. Ngỗng thích ăn cỏ gấu và cỏ gà non nhất. Phải tới 15 ngày tuổi mới có thể thả ngỗng đi ăn tự do được. Đến tuổi này ngỗng con rất hoạt động, chúng luôn sục sạo tìm mồi nhất là tìm cỏ, lá và củ. Do đó phải chú ý không để chúng phá vườn tược hoa màu. Số lượng thức ăn hàng ngày của ngỗng có thể lên đến 150g trong đó cỏ chiếm 100g, lúc ngỗng ăn no trông thực quản còn to hơn cổ của nó. cho ngỗng vặt cỏ tốt hơn là cho ăn rau trồng rau muống, rau lang….vì cỏ chứa ít nước hơn giá trị dinh dưỡng tổng số của cỏ lớn hơn tuy vật chất khô có thể kém so với một số loại rau trồng.ngoài ra ngỗng ăn cỏ thì phân đỡ ướt, do đó đỡ công dọn vệ sinh. – Nước uống cho ngỗng trong những ngày đầu rất quan trọng; mỗi ngỗng con từ 1 ngày tuổi đến 5 ngày tuổi cần trung bình 50 ml trong một ngày đêm. Chú ý đặt máng uống hơi cao để ngỗng không dẫm đạp vào và nhất là tránh chúng rỉa lông bằng nước uống. Lông ngỗng con là lông tơ, tuyến nhờn chưa phát triển nên rất dể ướt. Lông hi đã ướt ngỗng lại ăn thức ăn bột thì lông dễ dính bết, mắt có thể bị đau và có khi lông tróc ra thành từng mảng. – Khi chăn thả ngỗng con dưới 15 ngày tuổi nên mang theo máng đựng nước sạch cho ngỗng uống, vì nếu để ngỗng đi tìm nước uống thì chúng có thể sa xuống hồ, ao không lên được. – Những ngày trời mưa lạnh và gió to không cho ngỗng dưới 15 ngày tuổi ra đồng. Nếu nuôi ngông theo lối bán thâm canh thì sự phụ thuộc của ngỗng con vào thời tiết sẽ giảm đi nhiều. Những khi nắng hoặc mưa gió nên để ngỗng ở lại chuồng và lúc này rau xanh sẽ thay thế cho cỏ vì ngỗng không thể ra bãi chăn thả được. – Từ 15 ngày tuổi trở lên lúc này ngỗng con đã cứng cáp, có thể cho tự do tìm thức ăn và nước uống ở những bãi chăn xa hơn. Ơ tuổi này ngỗng con có thể tự tìm ra bãi chăn nhưng việc chăm sóc chúng trên đường đi hay ở bãi chăn thả là rất cần thiết; chú ý đừng để chúng đi quá phân tán, lạc đàn, sa xuống chỗ sâu không lên được hoặc phá hoại các loại cây trồng. – Ngỗng con ăn lắm ỉa nhiều. Phân ngỗng rất ướt và hăng, vì thế tro ng chuồng hay chỗ ở quây ngỗng phải luôn quét dọn sạch sẽ. Ngoài ra cần chú ý đề phòng chuột mèo hay cắn ngỗng con. Chỗ nuôi ngỗng phải được bảo vệ cận thận, nếu là quây mê bồ thì ở trên phải có nắp lưới hay nắp phên có khe hở để thông hơiđậy khít. Bên trong quây có treo đèn để có ánh sáng cho ngỗng ăn đêm và chuột sợ không dám vào. 3. Nuôi ngỗng thịt và ngỗng hậu bị – Từ 1 tháng tuổi trở lên là ngỗng choai nuôi lấy thịt hay nuôi hậu bị để thành lập đàn mới hoặc bổ sung đàn ngỗng sinh sản. – Nuôi ngỗng thịt nói chung đơn giản hơn vì lúc này ngỗng đã trưởng thành, chúng phàm ăn và chóng lớn, do đó rất thích hợp cho cách nuôi chăn thả. – Ngỗng thịt có thể nuôi theo đàn đông khoảng 300 – 500 con, lứa tuổi trong đàn không nên chênh lệch nhau quá nhiều để cho ngỗng lớn đều và dễ tổ chức chăn thả. – Nếu nuôi đúng vào vụ gặt lúa thì buổi sáng lùa ngỗng ra ngoài đồng để nhặt các hạt rơi vãi. Trông một đàn lớn cũng không vất vả lắm vì chúng không chạy nhanh và sục sạo khắp nơi như vịt, vì vậy có thể sử dụng lao động phụ như cụ già trẻ em. Vào vụ gặt thường không phải cho ngỗng ăn thêm gì, vì ngỗng ăn nhiều và phàm ăn, nhiều khi chúng ăn thức ăn đầy lên tận hầu. Thế mà một giờ sau thức ăn đã vơi và chúng có thể kiếm thức ăn ngay. Khi thấy ngỗng ăn đã no nên lùa chúng vào nghỉ chỗ râm mát, có nước để uống và bơi lội. Ngỗng choai rất thích bơi lội và đùa giỡn dưới nước. đàn ngỗng được tắm đầy đủ thường thay lông bóng mượt. – Nếu nuôi ngỗng choai không đúng vào vụ gặt thì sau khi chăn ở đồng bãi về cần cho ngỗng ăn thêm. Thức ăn cho thêm thường là lúa xấu, khoai lang băm nhỏ, sắn, bắp…..nếu ở gia đình nuôi với số lượng ít khoảng 10 – 15 conthì có thể tận dụng nước vo gạo trộn thêm thức ăn vào để chúng mò, nước vo gạo chứa nhiều chất dinh dưỡng như vitamin B1 rất cần cho ngỗng choai. Nhiều gia đình còn cho ngỗng ăn thêm bã rượu, bã đậu, cám heo…..cũng rất tốt. – Tùy theo điều kiện chăn nuôi có thể kết thúc nuôi ngỗng thịt vào lúc 75 hay 90 ngày tuổi lúc này ngỗng được 3,5 – 4,2kg. Nếu ngỗng được nuôi dưỡng tốt chóng lớn thì có thể rút ngắn thời gian nuôi, vì ở 10 tuần tuổi có con đạt được 3,5kg nếu là ngỗng sư tử hay ngỗng cỏ và nặng 4kg nếu là ngỗng Rênan. – Ngỗng hậu bị có thể chọn ra từ đàn ngỗng thịt, chú ý tránh đồng huyết, chọn ngỗng thịt đưa lên hậu bị chủ yếu căn cứ vào ngoại hình. Ở 3 tháng tuổi ngoại hình ngỗng chưa thật hoàn chỉnh, vì vậy cần kết hợp với cân đo và tiêu chuẩn giống để chọn cho sát. Nên dự phòng một số ngỗng đực ngoài yêu cầu cần thiết. Ví dụ nếu 100 ngỗng cái yêu cầu cần thiết là 25 ngỗng đực, thì ta nên chọn 30 con làm hậu bị. Đến khi vào vụ đẻ ta sẽ loại bớt ngông đực xấu đi và cả những con cái không đạt yêu cầu – Sự phân biệt đực cái ở các giai đoạn ngỗng thịt chuyển lên hậu bị vẫn còn khó. Thường ngỗng đực nặng cân hơn, đầu to, cổ dài dáng đi nhanh nhẹn và thường đi trước đàn. Nhưng để chính xác phải mở lỗ huyệt của ngỗng để chọn ngỗng đực có gai giao phối màu hồng nhạt, dài độ 1,5cm, ngỗng cái có lỗ huyệt nhẵn và hơi mềm hơn. – Người ta thường nuôi ngỗng hậu bị theo lối “cầm xác”, chủ yếu cho ăn ngoài đồng bãi. Ở giai đoạn này ngỗng hậu bị được chăn ngoài đồng sẽ chịu đựng kham khổ, đỡ tốn thức ăn, chịu khó tìm thức ăn, đồng thời cách nuôi chăn thả có thể nâng cao sức khỏe của ngỗng. Ở lứa tuổi này ngỗng tăng trọng hầu như không đáng kể, chúng chỉ béo lên trước vụ đẻ khi được nuôi vỗ béo. Việc tăng trọng chậm ở giai đoạn hậu bị không phải là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá con giống, trái lại người nuôi ngỗng có nhiều kinh nghiệm cố gắng tránh ngỗng béo lên trong thời kỳ này – Lúc chuyển ngỗng hậu bị sang đàn sinh sản cần chọn lọc lại để loại bỏ những con không đủ tiêu chuẩn II. NUÔI VỖ BÉO VÀ NHỒI BÉO NGỖNG – Nuôi vỗ béo ngỗng là phương pháp cho ngỗng ăn các loại thức ăn giàu chất bột đường để chúng tích lũy mỡ và thịt nhanh chóng – Nhồi béo là phương pháp vỗ béo tích cực nhất bằng cách ép chúng ăn thật nhiều loại thức ăn trên để tăng mỡ thịt hoặc để lấy gan béo – Ngỗng thịt nuôi theo lối chăn thả có thể dùng để vỗ hay nhồi béo rất thích hợp – Quá trình vỗ béo hay ngỗng lấy mỡ, thịt hay nhồi béo lấy gan đều phải tuân theo các điều qui định chính sau đây + Giống để vỗ và nhồi béo cần phải chọn lọc cận thận thì mới đạt hiệu quả cao, không dùng dùng ngỗng cỏ và ngỗng Sư tử để nhồi béo lấy gan và mỡ vì khả năng tích lũy mỡ của các giống này kém, ngỗng để nhồi tốt nhất là ngỗng Lăng, hoặc con lai của ngỗng Lăng x Rênan + Tuổi vỗ và nhồi béo thích hợp ngỗng vỗ béo là 56 ngày và nhồi sau 10 tuần tuổi, nhưng độ tuổi nếu quá muộn thường chỉ đạt hiệu quả kinh tế thấp, còn quá sớm thì gây chết nhiều đồng thời khả năng tăng trọng cũng không cao do chúng chưa phát triển bộ khung đầy đủ và khả năng hấp thu cũng kém + Kỹ thuật nhồi nói chung cần được luyện tập để đảm bảo làm nhanh nhẹ nhàng + Chuồng nuôi cần bảo đảm yên tĩnh, hơi tối có độ ẩm vừa phải cho ngỗng vỗ béo 75 – 80% nhưng cần thoáng mát và vệ sinh + Thức ăn dùng để nhồi hay vỗ béo cần được lựa chọn cho thích hợp với giống và được xử lý đúng cách . nói chung thức ăn phải mềm, dễ tiêu sạch và có chất lượng tốt + Cho ngỗng uống nước đầy đủ, nước trong sạch, nên cho uống tự do trong thời kỳ vỗ và nhồi thời gian nhồi ngỗng kéo dài bao nhiêu là tùy theo loại ngỗng và phụ thuộc vào mục đích lấy thịt, mỡ hay gan đồng thời còn phụ thuộc vào yêu cầu chất lượng sản phẩm béo vừa hay béo đẫy, gan to vừa và chắc hay gan thật béo – Vỗ béo hay nhồi béo ngỗng, ngỗng có thể vỗ béo để bán thịt hoặc nhồi để lấy gan. +Vỗ béo bán thịt bằng cách cho ăn tự do trước khi vỗ béo cần cho ăn no đủ, sau đó trong 10 ngày vỗ đầu tiên cho ngỗng ăn thường xuyên thật no, tiếp theo khi ngỗng đã béo vừa phải thì cho ăn các loại thức ăn ngon miệng để kích thích chúng ăn được nhiều, thức ăn trong giai đoạn sau cần có giá trị dinh dưỡng cao, thức ăn chủ yếu dùng để vỗ là bắp hạt vàng ngâm qua đêm, có thể cho thêm một chút muối, ngoài ra có thể cho chúng ăn thêm cám, khoai trộn với rau xanh khoảng 20%. Ở giai đoạn giữa về cuối có thể cho ngỗng ăn thêm bột cá, bột đậu tương khoảng 8% nếu có và cho thêm bí đỏ nạo để chúng ăn dễ. Thời gian vỗ béo của ngỗng khoảng 15 ngày là vừa, nếu dài hơn thì ngỗng ăn tốn mà tăng trọng chậm, vả lại khi ngỗng đã béo đẫy thì chúng chán ăn + Nhồi béo lấy gan ở nước ta việc nhồi béo lấy gan chưa có tập quán, đến nay kỹ thuật này cũng mới chỉ áp dụng trong phạm vi thí nghiệm ở viện chăn nuôi…những kết quả bước đầu cho thấy chỉ nên dùng ngỗng Lăng và con lai của nó với ngỗng Rênan. Việc nhồi ngỗng lấy gan thường tốn quá nhiều bắp hạt nên hiện nay không có lợi trong thực tiễn, chỉ khi nào gan ngỗng béo có thể xuất khẩu với giá trị cao thì mới phổ biến kỹ thuật này. Originally posted 2014-04-17 024420.
– Ngỗng Cỏ phân bố rộng rãi khắp cả nước, đựơc nuôi nhiều ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. – Ngỗng Cỏ thân hình có cấu tạo vững chắc chắn, có dáng hình thoi phù hợp với việc đi nhanh và xa, tiết diện thân gần như tròn. – Ngỗng Cỏ có đầu nhỏ, cổ dài và mảnh. – Ở ngỗng đực có mào sừng hình tròn nằm ở gốc mỏ trên, mỏ có màu da cam, mắt màu xanh xám đen, bụng thu gọn, chân cao vừa phải chắc chắn. – Giống ngỗng Cỏ này có màu trắng rất hiếm, màu xám, màu xám đen. – Khi trưởng thành ngỗng đực nặng ngỗng cái nặng Hướng dẫn nuôi ngỗng Cỏ 1. Chọn ngỗng con 1 ngày tuổi Ngỗng phải nở đúng ngày, khối lượng từ 85 – 100g/ lông phải bông, màu vàng chanh, mắt sáng không hở rốn, dáng đi nhanh nhẹn vững vàng. 2. Nhiệt độ nuôi ngỗng Cỏ Tuần 1 32 – 35 o C. Tuần 2 27 – 29 o C. Tuần 3 25 – 27 o C. Tuần 4 23 – 25 o C. – Đảm bảo nhiệt độ gột ngỗng trong những ngày mới nở và trong giai đợn gột ngỗng là yếu tố quan trọng đầu tiên giúp ngỗng con có sức đề kháng tốt. – Biện pháp sưởi ấm Có thể dùng lò sưởi bằng bóng điện 100W. – Nếu sử dụng trấu hoặc than cần phải chú ý để khói thoát ra ngoài tránh ngỗng con bị ngạt bởi thiếu O 2 và ngộ độc khí CO 2. Cách tốt nhất nhận biết ngỗng có đủ ấm hay không là quan sát đàn ngỗng, khi thiếu nhiệt ngỗng bị lạnh sẽ nằm đè lên nhau, tụm lại thành từng đống, cần tăng cường nguồn nhiệt và che chắn chuồng nuôi để giữ nhiệt, đồng thời tách những ngỗng yếu để chăm sóc riêng. Khi quá nóng ngỗng sẽ tránh xa nguồn nhiệt. Khi bị lạnh ngỗng con dạt về một phía, nằm cụm thành từng nhóm, cần che chuồng cho kín gió. Khi đủ nhiệt ngỗng con đi lại ăn uống bình thường. 3. Chuẩn bị quay úm, máng ăn, máng uống. – Quây Có tác dụng ngăn ngỗng không đi xa, đồng thời có tác dụng che ấm cho ngỗng con trong mùa đông. – Máng ăn Sử dụng máng có kích thước 45cm*60cm*2cm dùng cho 25 – 30 ngỗng con. – Máng uống Sử dụng máng nhựa cho ngỗng uống. Mỗi máng sử dụng cho 15 – 20 con. 4. Chất độn chuồng Dùng các loại rơm, trấu, mùn cưa để lót chuồng ngỗng. Trước khi lót phải tiến hành vệ sinh sạch sẽ, phơi khô sau đó mới đem vào sử dụng. 5. Ánh sáng Cần đảm bảo 24/24 giờ ở những ngày đầu, sau đó là 18 – 20 giờ ở các tuần tiềp theo. 6. Mật độ nuôi ngỗng Mật độ cần đảm bảo 1 – 7 ngày tuổi 10 – 15 con/m2. 8 – 28 ngày tuổi 6 – 8 con/m2. 7. Thức ăn và cách nuôi dưỡng ngỗng. Thức ăn xanh Rau, bèo, cỏ, củ, quả. Thức ăn hạt Ngô, thóc, đậu tương, lạc củ. Thức ăn bổ sung khoáng. Các bệnh thường gặp ở ngỗng Cỏ 1. Bệnh tụ huyết trùng * Triệu chứng bệnh diễn ra theo 2 thể – Thể quá cấp ngỗng đang bình thường lăn ra chết. – Thể cấp tính ngỗng mệt mỏi ủ rũ. Lỗ mũi và mỏ có tiết rịch nhầy, thở khó, khò khè và nhanh. Lông xơ xác. Ngỗng ỉa nhiều, phân màu xám, vàng hoặc xanh, có thể có máu. Mào của ngỗng tím thẫm. * phòng bệnh – Không nên nuôi chung ngỗng với các loại gia cầm khác như ngan, vịt. Đảm bảo vệ sinh chuông trại, các dụng cụ thiết bị chăn nuôi cần được đánh rửa sạch sẽ, thường xuyên. * Trị bệnh + Dùng Streptomicin hoặc Sunfamethazin liều dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. 2. Bệnh dịch tả vịt lây sang ngỗng * Triệu chứng niêm mạc mắt đỏ ửng, mắt bị sung. * phòng bệnh Trước hết cần cách ly đàn ngỗng giống khỏi khu vực có các đàn vịt lớn hoặc đang có nguy cơ mắc bệnh. Chuồng trại cần được sát trùng và để trống chuồn trước khi nuôi ngỗng ít nhất 15 ngày. Khu vực hay xảy ra dịch tả vịt thì cần phải tiêm phòng vac xin dịch tả vịt định kỳ. * Trị bệnh Khi xảy ra bệnh thì việc điều trị là kém hiệu quả, do đó ta tiêm thẳng vac xin vào ổ dịch. Những con ngỗng mắc bệnh nặng sẽ chết 20 – 50%, số còn lại trong đàn có khả năng tạo kháng thể và tồn tại. Số lượng ngỗng chết này tuỳ thuộc và tính chất nặng hay nhẹ của ổ dịch. Khi tiêm thẳng vac xin vào ổ dịch cần ưu tiên hàng đầu việc sát trùng chuồng trại và xác ngỗng chết cần được xử lý cùng vôi bột hoặc formol. Tăng cường sức đề kháng cho con vật bằng cách bổ sung vitamin C, B vào thức ăn nước uống. 3. Bệnh phó thương hàn * Triệu chứng – Thể cấp tính ỉa chảy, có bọt khí, viêm thanh dịch, có mủ, viêm màng kết mạc làm cho đau mắt. Cánh rủ, lông xơ. Bệnh kéo dài từ 1 – 4 ngày, gây chết đến 70% đàn ngỗng. – Thể mãn tính thường thấy ở ngỗng trưởng thành ỉa chảy, đôi khi có máu, lông khô xơ. Viêm lỗ huyệt, buồng trứng. trong thể mãn tính niêm mạc manh tràng thường bị phủ bởi lớp vàng dễ bóc. Túi mật sưng, đầy mật. trong lòng ruột non chứa dịch đục, đặc, màng niêm mạc thuỷ thũng, thường sung huyết, đôi khi bị phủ lớp màng như cám xám bẩn. * Phòng và trị bệnh + Dùng Biomixin liều 5 – 10mg/lần từ 2 – 3 lần/ngày, liên tục trong 5 – 6 ngày. + Có thể dùng các loại thuốc khác Norflorxacin, theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Không dùng trứng của các ngỗng mẹ có bệnh để ấp. 4. Bệnh cắn lông, rỉa lông * Bệnh thường xảy ra ở các đàn ngỗng đang ở lứa tuổi mọc lông cánh, ngoài ra có thể trong khẩu phần thiếu protein nghiêm trọng, hoặc trong thời gian ngắn cho ăn quá nhiều đạm động vật, sau đó lại thiếu, hoặc trong thức ăn thiếu khoáng lưu huỳnh, phốt pho, coban, mangan. Điều hết sức quan tâm đối với ngỗng con là thiếu rau xanh, chất xơ. Ngỗng con hầu cả ngày đều cần rỉa rau, nếu không có nó sẽ buồn miệng nhấm rỉa lông nhau. Rỉa đến khi chảy máu và màu đỏ của máu, lúc này lại tăng kích thích mổ cắn lông. * phòng bệnh Cần kết hợp các yếu tố tổng hợp, nhất là nuôi dưỡng và chuồng trại. Điều dễ dàng, đơn giản, đơn giản nhất là nhanh chóng tập cho ngỗng ra sân và chăn thả ngay từ ngày tuổi thứ 7 trở đi. Phát hiện sớm các ngỗng con bị rỉa để cách ly chúng ra khỏi đàn. * Trị bệnh Cho ăn Sunfat canxi thạch cao vì trong chất này chứa 23% canxi và 18% lưu huỳnh. – Cho uống nước pha 1% muối liên tục trong vài ngày có thể dập tắt được bệnh. – Cho ăn bột lông và tăng cường rau xanh. – Bổ sung dầu cá hoặc vitamin A từ 5 – 10 ngày với liều – UI và cách nhau 15 – 20 ngày lặp lại 3 lần.
I. Đặc điểm sinh học khi nuôi ngỗng Khả năng đặc thù khi nuôi ngỗng là ngỗng có thể sử dụng rất hiệu quả thức ăn xanh. Con ngỗng được ví như một cỗ máy xén cỏ, khả năng vặt cỏ của ngỗng tốt hơn bò, ngỗng có thể vặt tận gốc cây cỏ, cả phần củ rễ, ngỗng ăn tạp các loại cỏ và không chê cỏ non, cỏ già, cỏ dại từ cỏ tranh đến lục bình ngỗng đều ăn được cả. Ngỗng là loại gia cầm có khả năng tăng trọng rất nhanh, chỉ sau 10 – 11 tuần nuôi, khối lượng cơ thể đã tăng gấp 40 – 45 lần so với khối lượng cơ thể lúc mới nở. Ngan, vịt cũng là loại thủy cầm có khả năng lớn nhanh nhưng phải có thức ăn tinh cao, thức ăn giàu đạm trong khẩu phần. Với ngỗng khi được nuôi bằng thức ăn hỗn hợp thì tốc độ lớn sẽ là kỷ lục, song nếu nguồn thức ăn chỉ là cỏ, rau xanh và các loại củ hạt do ngỗng tự tìm kiếm hoặc nông hộ chỉ cho ăn hạn chế thì ngỗng vẫn phát triển và cho sản phẩm một cách bình thường. Các loại ngỗng thông dụng và giá bán Tuy nhiên thời gian cho sản phẩm thịt sẽ bị chậm lại 15 -20 ngày. Đặc biệt, ngỗng còn là loại gia cầm chịu nhồi và thức ăn nhồi chỉ là ngô, cám, khoai lang và hạt đậu nấu chín nên giá thành sản phẩm sẽ hạ. Nông trại nuôi ngỗng vui vẻ Toàn bộ sản phẩm thịt, gan, lông ngỗng đều được coi là sản phẩm chính, tuy nhiên các loại sản phẩm này chỉ đạt đến giá trị cao khi chăn nuôi ngỗng trở thành hàng hóa có đủ số lượng và đảm bảo chất lượng để có thể tham gia xuất khẩu lấy ngoại tệ. Bảng 1 Khả năng cho sản phẩm thịt, lông của ngỗng * Các chỉ tiêu Ngỗng Cỏ Ngỗng Rhein Land Ngỗng Lai Con đực Con cái Con đực Con cái Con đực Con cái Tuổi giết thịt ngày 77 77 77 77 77 77 Khối lượng cơ thể g/con 4329,9 3863,7 4420,0 3950,0 4787,5 4314,2 Tỷ lệ thịt xẻ % 59,28 60,35 66,49 67,0 61,16 61,76 Tỷ lệ thịt đùi % 27,81 28,38 21,98 21,64 22,78 23,81 Tỷ lệ thịt lườn % 20,14 20,70 23,14 23,56 19,24 20,36 Tỷ lệ mỡ % 1,50 2,35 1,93 2,81 1,84 2,25 Khối lượng lông g/con 275,8 211,5 250,9 218,5 218,0 164,5 * Nguồn Cẩm nang chăn nuôi, 2001 II. Kỹ năng nuôi ngỗng 1. Kỹ năng nuôi gột ngỗng con từ 1 đến 28 ngày tuổi a. Chọn ngỗng con Khi mua phải chọn những con ngỗng khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, lông bông, mắt sáng, không hở rốn, dáng đi vững vàng và đạt khối lượng cơ thể từ 85 đến 100gam/con. Nếu là ngỗng Cỏ lông có màu vàng chanh, ngỗng Rhein Land lông có màu vàng rơm. b. Các điều kiện nuôi dưỡng – Nhiệt độ chuồng nuôi Nhiệt độ được cấp bằng nguồn từ lò sưởi hoặc bóng điện để đảm bảo nhiệt độ trong quây Tuần thứ nhất 32-350C Tuần thứ hai 27-290C Tuần thứ ba 25-270C Tuần thứ tư 23-250C Đảm bảo nhiệt độ và các chất độn chuồng luôn khô, sạch để gột ngỗng trong những này mới nở và trong mùa gột ngỗng là yếu tố quan trọng đầu tiên giúp ngỗng con sinh trưởng tốt. – Mật độ và đàn nuôi Mật độ chuồng gột ngỗng con cần đảm bảo + Từ 1-7 ngày tuổi 10-15con/m2 + Từ 8-28 ngày tuổi 6-8 con/m2 Mức độ nuôi trong đàn phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của mỗi gia đình nông hộ. Một công lao động có thể chăn thả được từ 100- 120 con/đàn/người. – Thức ăn gột ngỗng Tuần đầu gia đình dùng bột tấm gạo, ngô trộn lẫn với rau xanh, thái nhỏ như rau lấp, lá xu hào, lá cải bắp, bèo tấm…. làm thức ăn gột ngỗng. Trong giai đoạn này để ngỗng con mau lớn có thể mua thức ăn viên chế biến bán sẵn của các nhà máy sản xuất như Proconco, CP, Dabaco, Hà Việt… về trộn với tấm gạo hoặc ngô mảnh sẵn có của gia đình theo tỷ lệ 35-40%. Đặc biệt đối với ngỗng, ngoài việc cung cấp thức ăn tinh, thức ăn xanh còn rất quan trọng trong khẩu phần, nhu cầu thức ăn xanh ngày càng tăng. Ngỗng ở giai đoạn 25- 26 ngày tuổi có thể ăn tới 1 – 1,2 kg thức ăn rau xanh/ngày và tăng mạnh ở các giai đoạn sau. Bảng 2 Khẩu phần nuôi gột ngỗng con từ 1-28 ngày tuổi Ngày tuổi Khối lượng cơ thể g Thức ăn tinh g Thức ăn xanh Mới nở 100 7 250 20 Tự do+chăn thả 14 450 35 Tự do+chăn thả 21 800-1000 50-60 Tự do+chăn thả 28 1600-1800 60-80 Tự do+chăn thả * Nguồn Cẩm nang chăn nuôi 2001 – Cách cho ngỗng ăn và uống Cho ngỗng con ăn nhiều bữa 4-5 bữa /ngày trên khay, máng ăn bằng tôn có kích thước cao 2 chỉ, rộng 45cm, dài 60cm đảm bảo cho 25-30 con ngỗng con. Từ tuần tuổi thứ ba trở đi, ban ngày chăn thả, chỉ bổ sung thức ăn tinh cho ngỗng trở về vào buổi chiều và ban đêm. Hàng ngày phải đảm bảo cho ngỗng được uống nước sạch đầy đủ. Đặc biệt cần được thả ngỗng khi đi ăn ở những nơi có nguồn nước sạch và có bóng râm. Kinh nghiệm chăm sóc ngỗng thịt 2. Kỹ thuật nuôi ngỗng dò thịt Giai đoạn nuôi từ 29 ngày tuổi đến lúc giết thịt 56-75 ngày tuổi. Ban ngày ngỗng được chăn thả và chỉ bổ sung thức ăn khi ngỗng trở về chuồng vào chiểu và ban đêm . Thức ăn tinh trong giai đoạn 56-75 ngày tuổi tối thiểu có 10-12ngày vỗ béo nên dùng ngô đỏ để ngỗng đạt độ béo, đáp ứng nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Với cương thức chăn thả ban ngày, ban đêm cho ngỗng ăn thức ăn tinh và bỏ sung rau xanh tại chuồng đã cho khối lượng ngỗng đủ tiêu chuẩn giết thịt 3,8-4,2 kg/con lúc 65-75 ngày tuổi. Nếu tính cả thức ăn xanh tự kiếm, ngỗng có thể ăn từ 1,5-1,8 kg rau xanh/con/ngày ở giai đoạn 29-49 ngày tuổi. Bảng 3 Ngày tuổi Thức ăn tinh g Thức ăn xanh g 29-42 60-80 500-700 43-56 60-80 500-600 57-75 140-200 500-600 *Nguồn Cẩm nang chăn nuôi năm 2001 3. Kỹ thuật vỗ béo ngỗng a. Vỗ béo ngỗng Lượng thức ăn tinh cần cho ngỗng khoảng 250-350g/con/ngày. Trước khi vỗ béo, cho ngỗng ăn tự do cho no, với thức ăn ngon để kích thích ngỗng ăn được nhiều, kể cả rau xanh, củ quả như bí đỏ. Có thể dùng hạt ngô vàng ngâm qua đêm, cho thêm một chút muối, ngoài ra có thể cho ngỗng ăn thêm khoai, cám trộn với rau xanh khoảng 20-25%. Vào 10 ngày cuối nên cho thêm vào thức ăn vỗ béo hạt đậu tương luộc chín khoảng 10% 1ượng thức ăn tinh ngỗng sẽ tăng cân nhanh. Thời gian vỗ béo chỉ thực hiện 10-15 ngày, nếu kéo dài sẽ làm cho chi phí thức ăn nuôi ngỗng cao và ngỗng cho tăng trọng thấp. b. Vỗ béo cưỡng bức Nhồi ngỗng Ngỗng là loại gia cầm có khả năng đạt kỷ lục về khối lượng cơ thể và cho gan to khi được nhồi cưỡng bức. Bằng biện pháp này ngỗng có thể tăng trọng gấp 2-3 lần trong vòng một tháng. Có thể nhồi ngỗng bằng tay hoặc bằng máy, ở nước ta ngỗng chủ yếu được nhồi bằng tay. Dụng cụ dùng để nhồi ngỗng là phễu nhồi có đường kính của miệng là 15-18 cm. Đuôi phễu là một ống trơn dài 25-30cm. Đường kính ống nhồi có nhiều cỡ, cỡ nhỏ 17-18cm, cỡ trung bình 21cm, cỡ lớn 23cm. Lúc mới nhồi sử dụng phễu nhỏ, sau đó tăng dần cỡ của phễu. Thức ăn để nhồi cho ngỗng là ngô, khoai lang, cám gạo. Thời gian đầu thức ăn được nấu chín, sau đó chỉ cần ngâm cho mềm 8-12 giờ cần bổ sung vào thức ăn 0,5% muối và 1% Premix khoáng-Vitamin. Trong thức ăn nhồi có 7-12% hạt đậu tương luộc chín. Kỹ thuật nhồi Cần cho ngỗng có thời gian làm quen với thức ăn nhồi trong 2-3 ngày. Số lần nhồi cẩn được tăng dần, ngày đầu tiên nhồi 1 lần/ngày, sau 3 ngày tăng lên 2 lẩn/ngày, sau 4 ngày tăng lên 4 lần/ngày. Lượng thức ăn nhồi cũng được tăng dần từ 250g/con lên 300g/con và tiến đến 350-400 gam/con/ngày. Sau khi nhồi ngỗng được thả vào nơi yên tĩnh, có đầy đủ nước sạch và được chăm sóc chu đáo. Originally posted 2014-04-17 024513.
Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 20/03/2015, 0944 Khả năng đặc thù của ngỗng là có thể sử dụng rất hiệu quả thức ăn xanh. Con ngỗng được ví như một cỗ máy xén cỏ, khả năng vặt cỏ của ngỗng tốt hơn bò, ngỗng có thể vặt tận gốc cây cỏ, cả phần củ rễ, ngỗng ăn tạp các loại cỏ và không chê cỏ non, cỏ già, cỏ dại từ cỏ tranh đến lục bình ngỗng đều ăn được cả. . TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Chuyên đề 3 năm 2012 Kinh nghiệm nuôi ngỗng Lê Hữu Thuận - Trưởng phòng Tư liệu thực hiện I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA NGỖNG Khả năng đặc thù của ngỗng là có thể sử dụng. gia xuất khẩu lấy ngoại tệ. II. KỸ NĂNG NUÔI NGỖNG 1. Kỹ năng nuôi gột ngỗng con từ 1 đến 28 ngày tuổi a. Chọn ngỗng con Khi mua phải chọn những con ngỗng khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, lông bông,. không nên nuôi các vật nuôi khác như chó, mèo trong khu vực chăn nuôi nếu nuôi phải nhốt lại. 2 Chuẩn bị điều kiện nuôi Chuẩn bị chuồng trại phù hợp với từng đối tượng gia cầm. Trước khi nuôi - Xem thêm -Xem thêm Chuyên đề Kinh nghiệm nuôi ngỗng,
cây cỏ lông ngỗng